Ngày đăng bài: 13/05/2019
Lượt xem: 3668
Tác giả: Thảm Len Việt Nam
Dệt thảm là một nghệ thuật cổ đại mà đã đạt đến đỉnh cao cùng với những tấm thảm dệt hoàn toàn bằng tay phương Đông và thảm Ba tư từ thế kỷ 16 ở Thổ Nhĩ Kỳ, Ba tư và Trung Á. Ở thế kỷ XVII và XVIII, những nhà thiết kế thảm người Pháp và người Anh đã tạo ra một vài cải tiến trong phong cách và kết cấu thảm. Những tấm thảm mang dấu ấn châu Âu đã được sản xuất bằng tay đến tận năm 1841, khi Erastus Bigelow giới thiệu máy dệt sử dụng điện. Trong khi một vài loại thảm vẫn được dệt bằng tay thì phần lớn các nhà sản xuất thảm sử dụng công cụ và máy móc hiện đại.
Thảm phong cách Ba tư và Phương đông kết hợp chất lượng của các nhà sản xuất thảm cổ đại với nhiều sự lựa chọn thiết kế từ cổ điển đến hiện đại, tất cả nhằm cung cấp cho bạn sự lựa chọn giữa các loại vật liệu tự nhiên hoặc vật liệu tổng hợp.
Nghề dệt thảm tự hào có cả một lịch sử cổ xưa và rực rỡ. Kể từ khi những xã hội văn minh sớm nhất, con người đã từng sử dụng các hình thức khác nhau của thảm. Trong vườn Eden, da của động vật đã được sử dụng như quần áo và không nghi ngờ gì nữa, những tấm da tương tự như vậy cũng đã nhanh chóng được sử dụng trở thành vật liệu phủ sàn trong những ngôi nhà nguyên thủy nhất. Ngay sau đó người ta bắt đầu làm những tấm thảm thô sơ từ lau sậy và các loại thực vật khác.
Không giống như trong các gia đình ngày nay, ở thời đại đó một tấm thảm tốt hoặc da động vật là một trong những tài sản có giá trị nhất và được cho là để phân biệt người có địa vị xã hội cao. Những nhà nghiên cứu đã tìm thấy một số tài liệu tham khảo cho nghệ thuật dệt thảm trong các kinh sách cổ và các tác phẩm cổ điển, cho phép chúng ta thiết lập một dòng thời gian trong lịch sử của ngành thảm và việc sử dụng một số phương pháp làm thảm nhất định cũng như phương pháp sản xuất ra vật liệu làm thảm.
Dựa trên những mảnh vụn được tìm thấy trong các ngôi mộ Ai Cập và Lưỡng Hà, chúng ta biết rằng nhiều loại hình dệt phẳng đã được phát triển tốt hơn 4.000 năm trước. Các chứng cứ khác thu thập bởi các sử gia cho thấy dệt thảm đống (thảm thắt nút, cắt) đã có mặt ở Trung Đông và một phần của châu Á hơn 2000 năm trước công nguyên.
Ở châu Á, những người lang thang du mục dường như là những nhóm người đầu tiên tạo ra thảm với khối lượng lớn, điều này dường như là để thuần hóa và nâng cao số lượng cừu nuôi như một nghề truyền thống của bộ lạc. Chăn thả là một nghề truyền thống của những người lang thang du mục và dệt thảm là một cách hiệu quả và giá trị để sử dụng nguồn len của họ. Ban đầu, lớp len dày bao phủ da động vật được sử dụng để bảo vệ chống lại cái lạnh. Nhiều khả năng nghề dệt len thành thảm và các mặt hàng khác đã phát triển để thay thế da động vật thô.
Năm 1949, một sự kiện quan trọng trong lịch sử nghề thảm đã diễn ra. Trong khi khai quật một khu vực chôn cất ở Siberia, một nhà khảo cổ học người Nga tên là Sergei Rudenko đã khám phá ra thứ gì đó được biết như thảm “Pazyryk”. Đây là tấm thảm cổ xưa nhất còn xót lại, nó đã bị làm đông cứng trong băng đá, nơi mà nó còn giữ được sợi thảm, màu sắc và thiết kế và ngày mà nó được sản xuất cách cả 5 thế kỷ trước công nguyên. Điều tuyệt vời ở tấm thảm này là còn tìm thấy các đặc điểm nổi bật với màu sắc phong phú, chi tiết rõ nét và một kiểu thắt nút thảm kỹ thuật bằng tay – gọi là Knot – và vẫn được duy trì phổ biến đến tận ngày nay. Tấm thảm có trung bình khoảng 200 nút trên 1 in vuông.
Thảm Pazyryk là một khám phá quan trọng và dẫn đến những quan tâm mới về lịch sử nghề thảm Ba Tư và phương Đông. Thảm Pazyryk được coi như là một tác phẩm xuất sắc của nghệ thuật Scythia. Các chuyên gia thảm Ba Tư quen thuộc với tác phẩm này tin rằng những người du mục đã dệt tấm thảm đến Siberia từ một khu vực bây giờ gọi là Mông Cổ. Tuy nhiên, có ý kiến cho rằng ngay cả khi người Mông Cổ đầu tiên dệt thảm đống thì đó là người Ba Tư, những người đã mang đến nghề dệt thảm thủ công và phát triển nó thành một hình thức nghệ thuật đích thực.
Một tấm thảm được gọi là “Thảm mùa xuân của Chosroes” (cũng gọi là Khosrows) thuộc về vua Ba Tư là tấm thảm Ba Tư cổ xưa nhất trước khi phát hiện ra thảm Pazyryk. Thảm dệt tay của Vua được dệt từ khoảng năm 550 trước Công nguyên, được làm bằng len, lụa, vàng, bạc và đá quý. Tấm thảm trang trí công phu này là thảm dệt tay bằng phương pháp thắt nút và rộng 400×100 feet. Thảm mùa xuân của Chosroes ước nặng vài tấn! Tấm thảm khổng lồ này có nhiều cảnh đặc trưng mùa xuân trong đó có chú chim đang bay, hoa nở, hoa quả chín và một đồng cỏ xanh xung quanh đường biên. Một thời những đường biên thảm được tin là làm bằng ngọc lục bảo vững chắc! Chuyện kể rằng nhà Vua đi lại nhiều lần trên tấm thảm này trong suốt mùa đông để thưởng thức những hình ảnh miêu tả đầy màu sắc của mùa xuân.
Đáng buồn thay, thảm mùa xuân của Chosroes đã bị cắt nhỏ thành nhiều mảnh khi các đội quân Ả Rập chinh phục Ba Tư. Các lực lượng xâm lược phá hủy các tấm thảm để thu thập tất cả các đồ trang sức quý giá đã được dệt thành sợi thảm như chiến lợi phẩm. Một vài mẫu đá và đồ trang sức vẫn còn tồn tại đến ngày nay và có thể được tìm thấy trong các bảo tàng trên thế giới
Mãi cho đến sau 1000 năm sau Công nguyên, bắt đầu từ Tây Ban Nha, dệt thảm đã trở thành có tổ chức ở châu Âu. Giống như các tuyến đường thương mại đã đang tiếp tục phát triển tới Ai Cập, Lưỡng Hà, Ba Tư, nghệ thuật dệt đã trở lại và phát triển trên tất cả các lục địa châu Âu.
Theo lịch sử được biết đến của thảm phương Đông và Ba Tư, việc sử dụng và phân phối thảm đống khắp châu Âu liên quan đến các sự kiện có ý nghĩa lịch sử như sự hiện diện của người Moor ở Tây Ban Nha, các cuộc thập tự chinh trong thế kỷ thứ XI đến thế kỷ thứ XIII, các chuyến đi của Marco Polo trong những năm cuối thế kỷ XII cũng như sức ảnh hưởng lan rộng từ các đại sứ quán của Venice từ thế kỷ thứ XIII.
Khi Eleanor xứ Castile kết hôn Edward I của Anh trong năm 1255, cô mang theo nhiều của hồi môn là thảm dệt tay Tây Ban Nha của mình, mà có lẽ được dệt từ Cordoba hay Granada. Trong khi cặp vợ chồng hoàng gia được hưởng sự thoải mái, hạnh phúc êm ái trên những tấm thảm, thì họ là một trường hợp ngoại lệ bởi hầu hết các khu dân cư ở Anh, bao gồm cả các cung điện và nhà lớn thuộc về các lãnh chúa đều sử dụng cói (một cây đầm lầy cứng) và cỏ khô cho sàn nhà của họ cho đến những năm đầu của thế kỷ XVII. Một ghi chép các hoạt động hàng ngày trong thời gian đó cho thấy nhiều lãnh chúa và hoàng tộc khác đã sử dụng thảm bằng da thô để thay thế mỗi ngày.
Một du khách người Đức tên là Paul Hentzer đã viết trong nhật ký của mình rằng năm 1598 tại Cung điện Greenwich, cá nhân ông thấy cỏ tươi được rải trên sàn căn phòng của nữ hoàng Elizabeth. Trong những năm qua, ngày càng nhiều người Anh giàu có và có ảnh hưởng bắt đầu sử dụng thảm đống trong nhà của họ. Cuối cùng, thảm đã trở thành gần như là phổ biến ở Anh giống như ở nơi khác trên thế giới.
Thật thú vị khi chú ý rằng loại thảm tương tự như thảm phương Đông có thể được nhìn thấy trong các bức tranh châu Âu cũ. Điều này ủng hộ niềm tin rằng châu Âu đã nhập thảm Phương Đông hoặc Ba Tư rất lâu trước khi họ học được cách làm thảm dệt tay cho chính mình. Hầu hết châu Âu, Anh và các nước Bắc Âu đã sản xuất thảm của riêng mình vào giữa thế kỷ XVIII đến thế kỷ XIX. Tuy nhiên, thảm thủ công từ các khu vực này là rất hiếm ngày nay bởi vì họ không thể cạnh tranh với chất lượng cao và chi phí lao động thấp của thảm phương Đông và Ba Tư.
Một số nước châu Âu, đặc biệt là Bỉ, đã phát triển một ngành công nghiệp thảm lớn làm bằng máy sau thời chiến tranh thế giới II. Họ tập trung vào những gì họ có thể làm tốt và để lại việc làm của thảm làm bằng tay cho những nơi có điều kiện thuận lợi hơn.
Tại Hoa Kỳ, có hình thức “Thảm phương Đông” của riêng họ. Người Mỹ bản địa, cụ thể là người Navajos, có một lịch sử đáng chú ý có niên đại vào khoảng 1.700 năm, khi Navajo được cho là đã học được nghệ thuật dệt thảm từ các bộ tộc Pueblo. Giả thuyết này được củng cố bởi những câu chuyện truyền từ người lớn tuổi của bộ lạc cũng như các mẫu thảm Navajo có niên đại từ 1.700 năm mà song song gần với thảm được làm bởi người Pueblo. Sự khác biệt chính giữa thảm thực hiện bởi hai nhóm người này là thảm Navajo đã được làm với len, trong khi những tấm thảm Pueblo đã được làm với bông.
Quốc gia Navajo nằm ở phía tây của Hoa Kỳ. Quốc gia chiếm phần lớn đất ở một khu vực được gọi là “bốn góc”. Đây là nơi mà biên giới của bốn bang gặp gỡ, cụ thể là, Arizona, New Mexico, Utah và Colorado. Vẫn còn các nhà sản xuất tấm thảm Navajo ở khu vực đó mà họ dệt những tấm thảm theo cách thủ công truyền thống. Thảm Navajo, một trong nhiều loại thảm miền Tây Nam, bao gồm một loạt các hình dạng và thiết kế phức tạp, với trọng tâm là các đường hình học và hình dạng hình học. Thiết kế tấm thảm có thể bao gồm một biểu tượng gia đình, biểu tượng có ngụ ý tôn giáo, hoặc hiển thị sự quan tâm cao cho một hoặc nhiều khía cạnh của môi trường.
Thuốc nhuộm màu những tấm thảm được lấy từ nhiều nguồn thực vật khác nhau cho đến giữa những năm 1.800, khi người Navajo bắt đầu sử dụng các nguồn thuốc nhuộm được giới thiệu bởi người châu Âu, chủ yếu là Đức và thuốc nhuộm Tây Ban Nha. Vào cuối những năm 1.800, một số nhà sản xuất thảm Navajo bắt đầu sử dụng sợi thương mại hơn là tự chuẩn bị len của mình từ chính con cừu của họ. Những người châu Âu cũng đã giới thiệu cho người Navajo các thiết kế khác, chẳng hạn như mô hình tấm thảm phương Đông, mà có thể được kết hợp vào những tấm thảm Navajo.
Mặc dù thường được gọi là “thảm”, hầu hết các tác phẩm dệt phẳng được sử dụng cho chăn hoặc khoác trên vai của các tù trưởng bộ tộc cho đến những năm 1880. Đến cuối những năm 1880, những giao dịch thương mại bắt đầu đòi hỏi nhiều hơn lượng vỏ gối và chăn để đáp ứng các nhu cầu của du khách muốn trang trí nhà cửa. Ban đầu, loại hàng hóa này đã bị chất lượng kém, do rất nhiều sản phẩm được sản xuất ở một khoảng thời gian ngắn. Các nhà làm thảm nhận ra rằng họ cần thành thật với nghề của họ và chất lượng được ưu tiên hơn thời gian sản xuất. Tuy nhiên, nhiều người muốn trải sàn hơn thay vì dùng làm chăn truyền thống, và, như để đáp ứng với nhu cầu, việc làm thảm của người Navajo thực sự bắt đầu.
Gần cuối những năm 1.800 có sự gia tăng lớn về số lượng thảm cả sản phẩm và ý nghĩa kinh tế của việc làm thảm do nhu cầu từ kinh doanh thương mại và khách du lịch. Bắt đầu từ những năm 1890, các tuyến đường sắt ở Santa Fe đã làm cho càng nhiều du khách từ khắp nơi trên nước Mỹ cũng như châu Âu có thể đến thăm miền Tây Nam. Họ yêu thích những tấm thảm Navajo và giá trị của chúng như là những sản phẩm khởi tạo ban đầu của nghệ thuật chứ không phải là món quà lưu niệm đơn giản.
Không phụ thuộc vào loại thảm bạn sở hữu, cho dù chỉ là một hoặc một bộ sưu tập đa dạng, nghệ thuật của tấm thảm làm nên biên niên sử loài người. Tất cả các thảm thủ công là công trình độc đáo của nghệ thuật và phải được coi là vật gia truyền và tài sản có giá trị. Trong thế giới hiện đại, có nhiều bản thảm ít tốn kém được sản xuất với một phần nhỏ của chi phí, họ vẫn có thể cung cấp cho người dùng một cái nhìn tương tự và có thể là khá có giá trị. Thảm thiết kế hiện đại thường được làm bằng các sản phẩm thảm chần cũng như sản phẩm dệt thoi.
Thảm đã có sức hút kỳ diệu từ khi nàng Scheherazade lần đầu tiên kể câu chuyện của Aladdin và tấm thảm bay của mình. Trải qua hàng ngàn năm, thảm phương Đông đã lấy cảm hứng từ văn học, nghệ thuật và âm nhạc. Từ khi được dệt bởi những người du mục ở Thổ Nhĩ Kỳ và Mông Cổ, dệt thảm đã phát triển thành một nghệ thuật mà đã tồn tại sau những biến động chính trị và tôn giáo. Nghệ thuật làm thảm là một trong những chủ đề phổ biến mà nó ràng buộc các nền văn hóa với nhau xuyên suốt nhiều thế kỷ.
Dòng thời gian
3.000 năm trước Công nguyên
Các bộ lạc du mục bắt đầu đan kết thảm để làm ấm tầng đất. Họ dệt các sợi tóc (lông) từ con lạc đà, cừu và dê để tạo lên các tấm thảm thô sơ.
1.000 năm trước Công nguyên
Khoảng thời gian tấm thảm Pazyryk được cho là được làm – tấm thảm lâu đời nhất được biết đến. Với 200 nút trên mỗi inch vuông, nghề làm tấm thảm chính thức thành lập.
500 năm trước Công nguyên
“Agamemnon” Hy Lạp cổ điển đã đề cập đến thảm
Thế kỷ thứ VII đến thế kỷ thứ VIII
Tiến trình nghề thảm đã được xác định khoảng 3.000 năm.
Thế kỷ thứ XIII đến thế kỷ thứ XIV
Thập tự chinh đã mang lại nghề dệt thảm đến châu Âu.
Năm 1277, Vua Louis IX đã nhân rộng nghề dệt thảm khắp nước Pháp.
Thảm trở thành mặt hàng dệt thương mại được đặt hàng ở Trung Đông cho các khách hàng châu Âu.
Thế kỷ thứ XV
Sở hữu một tấm thảm phương Đông giờ đây được coi như một biểu tượng quyền lực lớn.
Quý tộc và quý bà có chân dung của họ được vẽ trên nền những tấm thảm Ottoman hoặc thảm Thổ Nhĩ Kỳ.
Thế kỷ XVI
Đỉnh cao của nghề thảm ở Trung Quốc được bắt đầu trong Triều đại Mãn Châu còn gọi là Triều đại nhà Thanh.
Nghề làm thảm thịnh vượng ở Trung Đông trong triều đại cai trị của Safavid
Thảm nạm đồ trang sức, những tấm thảm Ardebil nổi tiếng nhất trong thời gian này. Ngày nay, thảm Ardebil còn được lưu giữ ở bảo tàng Victoria và bảo tàng Albert
Ngành công nghiệp dệt thảm Ba Tư trở nên gần như đã lỗi thời vào năm 1722 khi những người Afghanistan xâm lược Ba Tư.
Đế chế Mongul, Hoàng đế Akbar đã bắt đầu làm thảm ở Ấn Độ bằng những người thợ dệt Ba Tư được đưa đến từ Kashan, Isfahan và Kerman.
Thảm bây giờ được xem như quá quý giá để trải trên nền nhà, thay vào đó chúng được sử dụng để trang trí tô điểm trên bàn tủ hoặc các bức tường.
Năm 1570, dệt thảm được giới thiệu tại Anh để nhân rộng nghề dệt thảm Ba Tư.
Thế kỷ XVII
Năm 1608, Vua Henry IV đã cho dựng xưởng sản xuất thảm ngay trong cung điện Louvre ở Paris.
Ngày đăng bài: 13/05/2019
Lượt xem: 3669
Tác giả: Thảm Len Việt Nam